Ngày 18 tháng 9 năm 2021 – Tọa đàm về “Tính cấp thiết trong việc đưa EPR vào thực hiện tại Việt Nam” đã được diễn ra nhằm đưa ra tầm quan trọng của cách tiếp cận môi trường nơi mà trách nhiệm của Nhà sản xuất (NSX) được mở rộng đến giai đoạn thải bỏ trong vòng đời của sản phẩm.
Buổi tọa đàm có sự góp mặt của các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực về môi trường, bao gồm:
Tại buổi tọa đàm, bà Nguyễn Hoàng Phượng đã nêu lên những mặt tốt mà EPR có thể đem lại cho Việt Nam:
Theo bà, những áp lực về chất thải sẽ tăng và tiếp tục tăng trong tương lai nếu không có cách chính sách, hoạt động đúng đắn: “… World Bank ước tính rằng chất thải rắn ở Việt Nam đã tăng gấp đôi chỉ trong vòng ít hơn 15 năm, tăng nhanh hơn sự phát triển của cơ sở hạ tầng cũng như năng lực quản lý. Ít nhất 80% chi phí quản lý rác thải rắn hiện tại vẫn đang được hỗ trợ bởi Chính phủ, nhưng vẫn chưa thể thu gom được 15-16% tổng lượng chất thải ở khu vực đô thị, và 45-60% ở khu vực nông thôn chưa thể thu gom.”
Cùng với đó, bà Quách Thị Xuân trình bày các nội dung của thư kiến nghị liên quan tới dự thảo EPR tại Việt Nam, bao gồm 4 kiến nghị chính:
Về vai trò của quản lý rác thải sẽ thay đổi như thế nào khi việc sớm đưa nghị định EPR vào thi hành, Tiến sĩ Hoàng Dương Tùng cho rằng: “EPR là một trong những biện pháp, không phải công cụ vạn năng, nhưng có hỗ trơ giải quyết vấn đề vấn đề tồn tại. Cần có lộ trình, phương pháp, các bên cùng quyết tâm làm: Có thể không lùi với một số sản phẩm, để có lộ trình. Cần phải cụ thể hóa các điều của Luật đúng mục đích, theo lộ trình, để các bên hiểu về trách nhiệm của mình là quan trọng nhất. Cần có lộ trình áp dụng EPR với các ngành hàng. Có phương án thu, chi như thế nào cho minh bạch, không nên tạo cơ chế xin cho, tạo lợi ích nhóm. Nên thêm các tổ chức khác vào trong tổ công tác EPR quốc gia.”
Lý giải vì sao EPR sẽ tạo cơ hội cho ngành công nghiệp tái chế tại Việt Nam, ông Hoàng Đức Vượng – Chủ tịch hội Nhựa tái sinh – phát biểu: “Đây là cơ hội bảo vệ môi trường. Rác thải tại Việt Nam hiện nay có giá trị thấp và có một số rác giá trị cao thải ra bãi rác. Các làng tái chế thải khí thải, rác thải, bị lên án ô nhiễm môi trường. Nhưng không có các làng tái chế thì rất ô nhiễm, vì họ cũng có vai trò thu gom và tái chế. Tiêu dùng nhanh, tăng trưởng nhanh nên nhiều rác dẫn đến nhiều làng nghề và nếu không hỗ trợ xử lý nước thải thì lại ô nhiễm.” Hơn nữa, ông Vượng khẳng định rằng đây là một cơ hội để giảm chi phí nhập nguyên vật liệu cho Việt Nam, cạnh tranh với các nước: “…Khi có đóng góp tài chính cho tái chế, có hỗ trợ của các Sở ngành, có giấy phép tái chế và đảm bảo tiêu chuẩn môi trường thì các đơn vị đó có thể phát triển – vừa bảo vệ môi trường, vừa phát triển ngành công nghiệp.”
Về vai trò của các Tổ chức khoa học trong nghị định EPR, bà Nguyễn Thị Thu Trang khẳng định rằng các Tổ chức khoa học công nghệ đã đồng hành trong dự thảo 1,2,3 của EPR. Hơn nữa, bà Trang cho rằng vấn đề rác thải không chỉ của nhà nước và cần kết hợp các bên: ” Cần điều hòa lợi ích các bên, tham gia tích cực thực hiện chính sách, chủ trương. Phát triển tính tích cực của cộng đồng dân cư, các tổ chức môi tường đóng góp lớn trong phát hiện vi phạm môi trường. Các tổ chức ngoài công lập không chỉ có quyền mà còn có năng lực, giúp giám sát, thực hiện EPR. Từ đó nâng cao năng lực của doanh nghiệp và các bên liên quan. Ngoài ra, hiện nay sự quan tâm của doanh nghiệp là sẵn sàng thực hiện EPR, nhưng làm thế nào để biết giải quyết đúng vấn đề về rác thải. Sự tham gia của nhiều bên sẽ giải quyết vấn đề này. Các tổ chức đóng vai trò trung gian, giúp thực hiện hiệu quả và giám sát quá trình thực hiện EPR với các bên liên quan”
Về cơ sở hạ tầng phục vụ cho nghị định EPR, ông Hoàng Đức Vượng và tiến sĩ Hoàng Dương Tùng trả lời: